Các nguyên tắc chiến thuật cơ bản của blitzkrieg Blitzkrieg

Tập trung quân lực

Bố trí quân lực tập trung tại một chính diện hẹp trên chiến trường để giành ưu thế quân số cục bộ, từ đó chiếm ưu thế chiến thuật cục bộ để rồi khuếch trương ưu thế cục bộ đó thành chiến thắng là phương cách thường dùng trong lịch sử chiến tranh. Ngay ở Chiến tranh thế giới thứ nhất, một kỹ sư Anh là Frederick Lanchester (Phrê-đê-rich Lan-chextơ) đã nghiên cứu về tương quan sức mạnh của hai phía đối địch và đưa ra Định luật Lanchester, trong đó khẳng định một đội quân đông gấp 2 đối phương sẽ có sức mạnh bằng gấp bốn lần (bằng bình phương tỷ lệ quân số)[26].

Trong học thuyết blitzkrieg, việc tập trung quân lực được quy tắc hoá và mô tả bằng từ Schwerpunktprinzip, theo đó bộ binh, pháo binh, xe tăng sẽ được tập trung tối đa vào một điểm trọng tâm, gọi là Schwerpunkt nhằm đạt ưu thế áp đảo về số lượng và hoả lực cục bộ. Với sự lựa chọn điểm trọng tâm có tính toán nhằm đảm bảo yếu tố bất ngờ cũng như đảm bảo địa thế ở điểm trọng tâm phù hợp cho hoạt động của xe tăng và xe cơ giới, thì lực lượng này sẽ vừa thực hiện đột phá phòng tuyến đối phương, vừa thực hiện vận động thọc sâu dưới sự hỗ trợ của Không quân và pháo binh.[cần dẫn nguồn]

Đột phá tuyến phòng ngự

Chiến thuật đột phá tuyến phòng ngự của đối phương về cơ bản là bài bản đã áp dụng ở Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất được cơ giới hoá, trong đó sử dụng một lực lượng thâm nhập vào các tuyến bên trong trước khi tấn công các vị trí phòng ngự bên ngoài. Đối diện với một phòng tuyến của đối phương gồm 3 lớp cơ bản: các tuyến phòng ngự vòng ngoài, tuyến pháo binh hỗ trợ và khu vực vận động của quân trù bị chiến thuật, thì blitzkrieg yêu cầu chia đội hình xe tăng - cơ giới hoá thành 3 thê đội lần lượt thâm nhập khu vực chiến thuật. Thê đội 1 sẽ bỏ qua các ổ đề kháng để thọc sâu tấn công lực lượng trù bị trong khi thê đội 2 tấn công tuyến pháo hỗ trợ phòng ngự. Sau khi 2 thê đội này đã thâm nhập thành công qua chiều sâu chiến thuật của phòng tuyến, thì thê đội ba mở màn tấn công trực diện các ổ đề kháng. Việc đồng bộ hoá thời gian nhằm bảo đảm hiệu quả gây tê liệt tức thời toàn bộ chiều sâu phòng tuyến, tối đa hoá hiệu quả gây sốc, bảo đảm xuyên thủng tuyến phòng ngự, sau đó thực hiện vận động thọc sâu vào hậu cứ đối phương[27].

Vận động thọc sâu

Sau khi đã mở được cửa đột phá qua tuyến phòng ngự tiền duyên của đối phương, nhiệm vụ của các đơn vị xe tăng - cơ giới hoá là vận động sâu, đánh chiếm các yếu điểm của đối phương trong hành tiến dưới sự bảo vệ của Không quân[gc 12]. Nhằm tối đa hoá khả năng khai thác các cơ hội chiến thuật, tăng tốc độ vận động, học thuyết đặt trọng tâm vào việc rút ngắn quy trình ra quyết định.

Nguyên tắc linh hoạt chiến thuật

Thông thường, quyết định tác chiến mỗi khi có một tình huống phát sinh thường đi qua các bước: thu thập thông tin tình huống (hoặc do Quân báo và Trinh sát cung cấp), cân nhắc giải pháp, ra quyết định, triển khai xuống cấp dưới[28]. Trong điều kiện vận động, nếu thông tin được thu thập ngay ở chiến trường và quyết định được cân nhắc ở hậu phương, thì khi quyết định triển khai xuống rất có khả năng đã lạc hậu với chiến sự đang phát triển liên tục. Vì lý do đó, học thuyết khuyến khích cấp chỉ huy chiến dịch và chiến thuật nhận nhiệm vụ dưới hình thức mục tiêu và ý định, và được toàn quyền ra quyết định tác chiến dựa trên thông tin tức thời tại chỗ [29]. Quy tắc phân quyền này cần có một quá trình chuẩn bị có chiều sâu: việc đào tạo và bổ nhiệm sĩ quan ngay từ các đơn vị nhỏ đã phải dựa trên khả năng tư duy chiến thuật, chứ không dựa trên khả năng đảm bảo kỷ luật chiến thuật[gc 13].

Hợp điểm, bao vây tiêu diệt

Mục tiêu vận động tuỳ thuộc vào từng chiến dịch, nhưng quy tắc chung là chia cắt, cô lập và làm tê liệt một phần quân lực đối phương. Để làm việc này, thông thường mỗi chiến dịch cần có hai mũi tiến công sâu theo kiểu gọng kềm để hợp điểm phía sau lưng của đối phương[gc 14].

Sau khi đã hợp điểm và bao vây một phần lực lượng địch trong túi, thì chiến dịch đi vào giai đoạn cuối cùng: bức hàng hoặc tiêu diệt đối phương đã bỏ qua trong quá trình vận động trước đó. Do học thuyết blitzkrieg lấy việc phá huỷ quân lực đối phương làm mục tiêu, nên cuộc tấn công cuối cùng thường triển khai từ nhiều hướng, trong thời gian sớm nhất có thể.

Hiệp đồng với Không quân

Không quân Đức Quốc xã (Luftwaffe) luôn là một thành phần quan trọng theo học thuyết blitzkrieg ở hai vai trò: hỗ trợ hoả lực tại điểm trọng tâm (Schwerpunkt) và chế áp không quân đối phương, bảo vệ cho lực lượng xe tăng - cơ giới thực hiện vận động chiến[30].

Trong Không quân Đức, các phi đội ném bom bổ nhào Ju 87 Stuka đảm nhiệm vai trò hỗ trợ mặt đất và tấn công sân bay đối phương (yểm trợ tầm gần), trong khi các phi đội tiêm kích Messerschmitt Bf 109/110 chiếm ưu thế trên bầu trời[31]. Trong thực tế chiến tranh, thắng lợi của các chiến dịch blitzkrieg đều tuỳ thuộc vào khả năng kiểm soát không phận của Luftwaffe. Ở giai đoạn sau của chiến tranh, khi Luftwaffe đánh mất ưu thế trên không, thì các binh đoàn xe tăng - cơ giới của Đức hoặc bị đánh chặn trong khi vận động, hoặc không dám thực hiện vận động[gc 15].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Blitzkrieg http://www.chetrichards.com/modern_business_strate... http://www.clausewitz.com/FAQs.htm#What http://www.militaryhistoryonline.com/wwii/articles... http://www.militaryhistoryonline.com/wwii/articles... http://app.response.stratfor.com/e/es.aspx?s=1483&... http://www.cgsc.edu/carl/resources/csi/Cannae/cann... http://www.cgsc.edu/carl/resources/csi/fuller2/ful... http://www.history.army.mil/books/wwii/milimprov/c... http://cgsc.leavenworth.army.mil/carl/resources/cs... http://www.charles-de-gaulle.org/pages/l-homme/dos...